Nguyễn Văn Thịnh
“Bên thắng cuộc” là ai? Cần hiểu dứt khoát rõ ràng đây là nhân dân Việt Nam thắng thế lực ngoại bang xâm lược... Càng không thể hiểu là “cộng sản thắng quốc gia”hay là “miền Bắc thắng miền Nam”. Đó là “thắng lợi của chính nghĩa chống phi nghĩa” (NVT).
TT Võ Văn Kiệt: đây là chiến thắng chung của toàn dân tộc để ai cũng ngẩng đầu lên tự hào. Không lẫn lộn nhân dân với số người sống bám vào ngoại bang chống lại sự nghiệp thống nhất độc lập của Tổ quốc ta.”
Cuốn này xưa rồi! Những gì xảy ra trên đất nước ta mọi người đều thấy. Dù đã lỗi thời nhưng một số người vẫn coi nó như kinh nhật tụng lừa thiên hạ. Nhắc lại tích cũ chuyện xưa hẳn cũng không là vô ích. Một nước nhỏ trên đường đi lên, mối lo đại sự không bao giờ hết. Tuy nhiên mối lo mỗi người một khác.
Nhà báo Huy Đức nói anh để 20 mươi năm thu thập tư liệu và 3 năm biên tập cho ra được bộ sách “Bên thắng cuộc” gồm 2 tập “Giải phóng” và “Quyền bính”, chia theo bốn phân kỳ lịch sử kể từ 30/4/1975 đến 2012: Miền Nam, Thời Lê Duẩn, Dấu ấn Nguyễn Văn Linh và Tam nhân (Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt). Tổng cộng 22 chương, mỗi chương lại có cả chục tiểu mục với chủ đề cụ thể. Có người khen đây là “cuốn sách hay nhất về lịch sử Việt Nam sau 1975”, nói về “những sự thật khốc liệt rất trung thực”, là “kho tàng dữ liệu quý báu có thể làm ngạc nhiên cả những chuyên viên theo dõi chính trị Việt Nam trong nhiều thập niên qua”, là “công trình khảo cứu lịch sử đặc sắc của một nhà báo có tay nghề lão luyện với lương tâm trong sáng”. Cộng với dãy dài những nhân vật tiếng tăm đủ các tầm cỡ được ghi lời cảm ơn rất là trân trọng như một sự đồng thuận hợp tác cho ra đời cuốn sách chứng tỏ nhà báo rất sành nghề quảng cáo, nắm bắt đúng thị hiếu của người xem tin.
Là một cựu chiến binh không thuộc diện được chế độ ưu ái nhưng may mắn được là chứng nhân suốt chặng đường lịch sử hơn 70 năm qua từ Bắc vào Nam, tôi có một số ý tản mạn nảy ra khi đọc nó, có thể không giống ai nhưng cũng chẳng theo ai.
Cuốn sách đầy đặc những thông tin dài dòng luẩn quẩn không có gì là đáng “ngạc nhiên”, “đặc sắc” và “khốc liệt” với những người theo dõi sát thời cuộc. Non nửa những thông tin ở đây được rút tỉa ra từ báo chí, những tin tức chuyên ngành cập nhật và những sách chính thống đã được lưu hành. Quá nửa là những tin tức “lượm lặt gần xa”, đa phần“khẩu thiệt vô bằng” trúng trật khó phân, mà loại tin này như rác đường, gom nhặt bao nhiêu chẳng đủ. Với một phóng viên xã hội có nhiều năm hành nghề làm việc này không khó. Có điều là nó được gom lại in ra thành sách và tung lên mạng trong bối cảnh xã hội lúc này, với người đọc ít thông tin thì hoang mang lung lạc và với những người có ý đồ riêng thì hỷ hả hân hoan.
Những thiếu sót sai lầm của bộ máy cầm quyền hầu như ai cũng biết trong sinh hoạt từ nội bộ ra ngoài xã hội, được tổng kết trong các nghị quyết và công khai trên các phương tiện truyền thông rộng hẹp. Suy cho cùng là từ bệnh ấu trĩ, giáo điều, quan liêu mệnh lệnh, duy ý chí có lúc tả khuynh khiên cưỡng, không lấy thực tiễn làm thước đo giá trị, nặng tính hình thức, mị dân mà lại xa dân, có lúc choáng ngợp trong hào quang chiến thắng sinh ra chủ quan đơn giản, chưa thật sự trọng dụng nhân tài và người tài thật cũng không có đất mà dụng võ; chưa coi trọng việc khoan thư sức dân, đào tạo cán bộ nói không đi đôi với làm lúc bị động thì tùy tiện thỏa hiệp, quản lý cán bộ thiếu chặt chẽ có lúc hỏng việc lớn. Trong bối cảnh hòa bình, đảng viên lãnh đạo các cấp từ số ít người tới một số, một nhóm người trong bộ máy công quyền tự tư tự lợi đã không được chấn chỉnh xử lý kịp thời để phát triển thành một bộ phận thoái hóa biến chất, coi thường kỷ cương phép nước cấu kết với nhau thành những nhóm lợi ích thao túng việc thực thi thậm chí làm sai lạc chủ trương chính sách của Nhà nước. Những sai lầm lại chậm bị phát hiện và sửa sai không triệt để sinh ra nạn lạm dụng chức quyền tham nhũng tràn lan. Từ đó để mất dần niềm tin gây nên tâm trạng bất bình trong một bộ phận không nhỏ đảng viên và dân chúng.
Tuy nhiên nhân dân ta rất tốt và yêu nước, đã cùng với nhà nước vượt qua mọi gian khổ hy sinh giành lại Tổ quốc Việt Nam thống nhất, hòa bình, độc lập, tạo được những đổi thay xã hội đáng kể tuy chưa xứng với tiềm năng công sức, có vị thế quốc gia được tôn trọng như hôm nay. Nhưng đã đến lúc giới lãnh đạo nhận ra rằng uy tín của Đảng đang giảm sút nghiêm trọng và sự tồn vong của Đảng tùy thuộc vào tiến độ sửa chữa sai lầm lấy lại niềm tin, nói và làm nhất quán, xây dựng nhà nước pháp quyền công khai minh bạch, chăm lo phòng thủ quốc gia, mở rộng dân chủ, thật sự đẩy lùi tham nhũng, thu hẹp khoảng cách giữa giàu với nghèo, thiết thực chăm lo sức dân bằng cách trả lại đúng giá trị giữa đồng lương danh nghĩa và lương thực tế, bảo đảm phúc lợi xã hội như học hành, chữa bệnh, việc làm…, nâng cao dần mức sống của nhân dân, tăng cường sức chiến đấu xứng đáng với một Đảng có truyền thống cách mạng vẻ vang.
Tất cả gom lại là như thế, cần chi kể những chuyện dông dài kín hở từ cung đình tới phố phường quán chợ phân tâm lòng người giống kiểu mô tả sống thế nào để sanh con? Mỗi lời nói hay sự kiện đều có ngữ cảnh, bối cảnh riêng. Trích dẫn một lời nói hay dẫn chứng một sự kiện phải tôn trọng đặc điểm ấy để người đọc hiểu đúng tinh thần của người nói và bản chất của sự kiện.
Báo Tuổi trẻ ngày thứ bảy 19/1/2013 có bài “Không hố sâu thật sự” của nhà báo Lưu Đình Triều – người đồng nghiệp lớn tuổi hơn, nói về chuyện Huy Đức dựa vào tình cảm bạn bè để khai thác và đưa tin xuyên tạc về gia đình anh – nhà báo cách mạng Lưu Quý Kỳ. Là một phóng viên thì việc được trực diện phỏng vấn người lãnh đạo là chuyện bình thường nhưng để được tiếp kiến trao đổi chuyện công không là điều dễ. Bao nhiêu nhân chứng “cộm” được nêu ra hoặc đã thành người thiên cổ, số còn lại thì không biết nhà báo Huy Đức là ai! Giới viết lách hiểu rất rõ rằng nếu Thủ tướng Võ Văn Kiệt muốn viết hồi ký thì cỡ Huy Đức chưa là gì để ông nghĩ đến. Một chuyện nhỏ ấy đủ để người đọc đánh giá Huy Đức “rất trung thực” và “lương tâm trong sáng” cỡ nào!
“Bên thắng cuộc” là ai? Cần hiểu dứt khoát rõ ràng đây là nhân dân Việt Nam thắng thế lực ngoại bang xâm lược. Một ngày tháng (Thống Nhất ngày nay), gặp một nữ y tá tất tả đi trên hành lang, ông dừng lại hỏi:
- Đi đâu mà vội thế?
- Em đi học chính trị!
- Học thấy thế nào?
- Dạ, thấy rằng chúng em có tội vì đã hợp tác với quân Mỹ xâm lược tổ quốc ta!
Ông buồn, nói với các cán bộ tuyên giáo: “Các anh dạy tào lao! Phải làm cho mọi người hiểu rằng đây là chiến thắng chung của toàn dân tộc để ai cũng ngẩng đầu lên tự hào. Không lẫn lộn nhân dân với số người sống bám vào ngoại bang chống lại sự nghiệp thống nhất độc lập của Tổ quốc ta”. Càng không thể hiểu là “cộng sản thắng quốc gia” hay là “miền Bắc thắng miền Nam”. Đó là “thắng lợi của chính nghĩa chống phi nghĩa”. Trong hoàn cảnh chiến tranh quyết liệt lâu dài, ý nghĩa của cặp từ “cộng sản”, “quốc gia” đã bị xuyên tạc và ngộ nhận. Mục đích đấu tranh của những người yêu nước chân chính thời nào cũng nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc. Nếu những người cộng sản xa rời mục tiêu ấy không thể tập hợp được quảng đại dân chúng ủng hộ mình. Những ngày đầu dựng nước cam go, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói:
“Không giải phóng được dân tộc thì làm sao giải phóng được giai cấp”.
Thực tế nhân dân đã quay lưng lại với những ai ngộ nhận là “quốc gia” chỉ nhằm mang lại lợi ích cá nhân hoặc một nhóm người. Nửa sau thập kỷ 1950, trong bối cảnh điên cuồng tàn sát những người yêu nước (300 ngàn người ở lại miền Nam từng có quan hệ với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bị sát hại), lại muốn làm sạch mặt chính quyền tay sai, trước thuộc hạ, Ngô Đình Diệm nói câu nổi tiếng: “Phải giành lại chính nghĩa từ tay cộng sản!”. Thế là bộ máy chiến tranh tâm lý kịp thay cặp từ “Việt minh” quen thuộc thân thương thành cặp từ “Việt cộng” xa lạ và đáng sợ.
Chính nghĩa là nguyện vọng độc lập dân tộc thống nhất non sông trải hàng thế kỷ những người Việt Nam yêu nước trong bất kỳ hoàn cảnh nào luôn son sắt một lòng. Ngay cả nhân dân Pháp và Mỹ cũng nhận ra cuộc chiến tranh ở Việt Nam do chính giới nước họ gây ra là phi nghĩa và quyết liệt đòi rút ngay con em trong đội quân viễn chinh về nước!
Hồi ký của GS Trần Thanh Đạm kể rằng: Ngày đầu, trong đoàn Bộ giáo dục gặp gỡ các thầy cô dạy trường Sư Phạm Văn Khoa Sài Gòn. Sau khi nói về việc ổn định trường sở và bước đi tiếp của nhà trường, hướng về giáo sư Nghiêm Toản – bậc trưởng thượng trong làng sư phạm cả Bắc và Nam đều biết: “Thầy có ý kiến gì không?”. Vị giáo sư Hán học uyên thâm khả kính lắc đầu từ tốn: “Tôi đã bỏ chính nghĩa mà đi thì còn gì để nói!”. Thời thanh niên sôi nổi ông đã từng công khai biểu thị lòng yêu nước và bị bắt giam ở nhà tù Hỏa lò. Sau vì lý do nào đó, GS đã trong đoàn người di tản vào Nam 1954. Sau 1975, không ít nhà trí thức tâm huyết cũng rời bỏ đất nước ra đi, mỗi người một tâm trạng nhưng lòng yêu tổ quốc Việt Nam vẫn khôn nguôi ngoai trong họ. Kẻ sỹ Việt Nam trong những thăng trầm của lịch sử dù đứng ở đâu luôn trăn trở với vận mạng của đất nước và mang nặng một lòng riêng u ẩn. Câu hỏi lớn về Tổ quốc chưa có lời giải nào trọn vẹn. Nhưng một điều chắc chắn là không bao giờ họ đối lập với dân tộc của mình!
Học giả Hoàng Xuân Hãn tổng kết: lịch sử ngàn năm dựng nước của dân tộc ta có 14 cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc, trong đó chỉ có hai cuộc chiến tranh giải phóng là thời Lê Lợi chống quân xâm lược nhà Minh và thời Hồ Chí Minh chống quân xâm lược Pháp và Mỹ. Phát động người người đồng lòng đứng lên chống lại khi giặc đã vào ở nhà mình, sân trước vườn sau nó chiếm, ai chống lại thì nó giết, ai xuôi chịu thì nó tha mà phải làm theo ý nó, có người được nó ưu ái tin dùng, sinh chuyện anh em một nhà đố kỵ lẫn nhau tan đàn xảy nghé! Giặc kia lại đến từ các quốc gia lớn, giàu có và văn minh, càng ở lâu càng sinh lắm chuyện. Đuổi được nó đi không là chuyện dễ, phải có lòng yêu nước nồng nàn và chấp nhận mọi gian khổ hy sinh. Nhưng khi giặc bỏ chạy rồi vẫn còn lắm điều rối rắm phức tạp dây dưa, anh em hòa hợp được không dễ một sớm một chiều. Cuộc chiến tranh giải phóng vừa qua diễn ra như thế dù là do nhân dân ta đứng lên đoàn kết chiến đấu tự giải phóng cho mình. Nói “miền Bắc giải phóng miền Nam” là xúc phạm tới lòng yêu nước truyền thống Việt Nam. Dân tộc ta đã đau đớn chịu đựng cuộc nội chiến phân tranh Trịnh-Nguyễn kéo dài hơn 200 năm. Sáu lần quân Trịnh và một lần quân Nguyễn vượt sông Gianh đều phải rút về. Nhân lúc ở Đàng Trong chúa Nguyễn suy thoái, quân Tây Sơn nổi lên, ở Đàng Ngoài vua Lê mạt nhược, chúa Trịnh tiếm quyền, Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc phò Lê diệt Trịnh, xong rồi lại rút ngay về Phú Xuân chỉ mang theo công chúa Ngọc Hân. Đến khi quân Thanh kéo vào dày xéo lên nửa phần phía Bắc của Tổ quốc thiêng liêng thì mọi người dân Việt không phân biệt Nam-Bắc, xóa bỏ mọi xích mích kỳ thị đoàn kết nhau lại. Nguyễn Huệ chỉ một trận hành binh thần tốc “đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”. Tướng giặc Tôn Sỹ Nghị nhảy lên ngựa không yên bỏ mặc 20 vạn quan quân tháo chạy! Sông Hồng ngập đầy xác giặc như cá chết trôi! Giang sơn nước Việt thâu về một mối.
Sâu xa mà nói, cuộc kháng chiến chống xâm lược phương tây lần này khởi đầu từ năm 1858 khi quân Pháp nổ súng đánh chiếm thành Đà Nẵng và bùng lên thành cao trào khi Phan Thanh Giản lừa vua phản dân ký hàng ước 1862 (Nhâm Tuất) bán đứng ba tỉnh miền Đông và tiếp đó năm 1867 (Đinh Mão) qua lời tuyên cáo đầu hàng nhục nhã với một dân tộc ba lần đại phá quân xâm lược Nguyên-Mông: “Người Phú-lang-sa có chiến thuyền to chở đầy quân và võ trang bằng đại bác. Không người nào có thể chống lại. Mình còn ngốc khi mình đánh lại người Phú-lang-sa bằng võ khí. Các quan văn cũng như các võ tướng hãy bẻ gãy giáo gươm và giao thành trì khỏi chống lại”, cống nạp nốt ba tỉnh miền Tây, biến lục tỉnh Nam kỳ thành thuộc địa của Pháp, mở đầu quá trình Việt Nam mất nước!
Phong trào toàn dân đánh giặc giữ nước khởi từ địa đầu phía nam này lan ra cả nước và chưa bao giờ tắt. Thế chiến II nổ ra, nước Pháp phản bội Đồng minh đầu hàng phát xít Đức và Nhật. Năm 1945, nhân dân Việt Nam nhất tề đứng lên giành lại độc lập và thực hành quyền dân tộc tự quyết. Được người Mỹ đồng tình, Pháp đưa quân tái chiếm Việt Nam, lần thứ hai miền Nam lại nổ tiếng súng đầu kháng Pháp. Không ít trí thức Nam kỳ vứt bỏ “làng Tây” như Thái Văn Lung, Nguyễn Ngọc Nhựt, Phạm Ngọc Thạch, Phạm Ngọc Thuần, Phạm Ngọc Thảo, Nguyễn Văn Kỉnh... kiên quyết đứng về phía nhân dân giữ gìn tổ quốc. Ông Lưu Văn Lang (1880-1969) mà giới trí thức Nam kỳ tôn kính như người anh cả, đã từ chối lời mời tham gia chính phủ “Đế quốc Việt Nam” do phát xít Nhật nặn ra đã có câu trả lời khảng khái: “Tôi đã quá già để làm tay sai!”. Sau hiệp định Genève 1954, những người yêu nước miền Nam lại đứng lên đấu tranh tự bảo vệ mình và đòi hòa bình thống nhất nước nhà tiêu biểu như Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Phạm Thị Thanh Vân (Bà Ngô Bá Thành)... Người Mỹ từ can thiệp đến dấn chân ngày càng sâu, cuối cùng nhảy vào thay thế hoàn toàn quân Pháp. Để thích nghi với hoàn cảnh thế giới mới, người Mỹ không áp dụng “Chủ nghĩa thực dân cũ” như người Pháp (dùng quân đội và bộ máy thống trị ngoại bang) mà thay thế bằng “Chủ nghĩa thực dân mới” (tổ chức quân đội và chính quyền tay sai thông qua viện trợ quân sự và kinh tế). Người Việt Nam không dễ bị mắc lừa. Người Mỹ buộc phải tiến hành cuộc “Chiến tranh cục bộ” với gần 600 ngàn lính GI (quân chính phủ liên bang) và lính Đồng minh. Nhân dân Nam-Bắc quyết một lòng kề vai sát cánh bảo vệ tổ quốc chống xâm lăng. Kết cục là quân Mỹ “rút lui trong danh dự” bằng cách “thay màu da những xác chết” để kết thúc bằng cuộc tháo chạy tán loạn chưa từng thấy trong lịch sử chống ngoại xâm của người Việt Nam. Đó là chiến thắng của tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, cốt lõi của truyền thống Đại Việt mới có thể tồn tại qua bao biến cố thăng trầm.
Đã nói chuyện lịch sử phải công bằng, nghiêm túc và không thể bỏ qua điều kiện lịch sử cụ thể của nó. Chiến thắng 30/4/75 không là cuộc vui vẻ “xuống đường” của những người từ rừng hối hả kéo nhau vượt bưng biền, lội kênh, băng lộ về xuôi, lên ngồi nhờ vắt vẻo trên xe đò chạy thẳng vào dinh Độc Lập nhận sự đầu hàng cùng bao nhiêu chuyện phát sinh sau đó ở cả hai phía, nó như hai mặt của một trang giấy mà nhà báo Huy Đức chỉ lật ngược cho mọi người xem mặt trái. Chiến tranh tất nhiên sinh ra những mối hận thù, càng lâu càng chồng chất. Một đội quân lớn tinh binh tinh nhuệ được trang bị vũ khí, kỹ thuật tối tân tự tan rã chỉ trong một ngày, hàng triệu tướng lĩnh quan quân tản vào trong dân chúng khắp chợ cùng quê. Trải ba chục năm liền đối đầu sống mái mà không có cuộc tắm máu thậm chí chỉ là những cuộc trả thù lẻ tẻ đã chứng tỏ tính chính nghĩa của người chiến thắng. Suy cho cùng cũng là “chiến thắng đặc biệt của tinh thần dân tộc Việt Nam”. Có nỗi vui mừng nào hơn thế nữa? Hãy nhìn qua bên kia biên giới tây-nam với họa diệt chủng xảy ra cùng thời điểm ấy? Và hãy xem lại trang sử thế giới không xa – thời Thế chiến II (1939-1945). Chỉ sau bốn năm, quân kháng chiến lưu vong theo quân Đồng minh tiến về giải phóng nước Pháp khỏi sự chiếm đóng của phát xít Đức trong không khí hằn thù bạo lực: Toàn bộ chính phủ Vichy bị lôi ra trước pháp đình. Án nặng nhất tuyên cho những kẻ cầm đầu như Thống chế Pétain, mặc dù đã từng là người hùng của nước Pháp trong thế chiến thứ nhất (tuy nhiên vì đã quá già nên bị đày ra đảo cho tới chết), viên Thủ tướng Laval, Tổng trưởng Giáo dục – nhà văn Bonnard… đều bị treo cổ trước đám đông dân chúng hò reo xỉ vả, là vết nhơ trong lịch sử dòng dõi Gaulois. Hơn 1.600 phần tử từng cộng tác với chính quyền phát xít Đức khủng bố những người kháng chiến bị tuyên án tử hình, ngoài số người phản bội làm điều ám muội và số gái chuyên làm trò giải trí cho quân phát xít đã bị những người du kích hành quyết ngay trên đường phố thì không có số thống kê! Ai cũng biết quân giải phóng Việt Nam do Đảng Cộng sản tổ chức, chỉ huy nhưng những chiến sỹ giải phóng hầu như được nhân dân các vùng bị chiếm đóng vui mừng mở rộng lòng như đón những đứa con xa mẹ từng chịu bao gian lao anh dũng chiến thắng trở về. Khác hẳn cảnh khi quân đội Mỹ giàu có hùng hổ từ các chiến hạm Thái Bình Dương ào ạt đổ bộ lên chiếm đảo Okinawa, đã có hàng trăm ngàn người kể cả binh sỹ và thường dân Nhật mổ bụng tự sát bởi lo sợ bị trả thù. Khi quân Đồng minh đặt chân lên kinh đô Tokyo, hàng ngàn phụ nữ tự nguyện phô thân đủ kiểu trước Hoàng thành, khuyến dụ kẻ chiến thắng không cho xúc phạm tới Nhật hoàng. Sau này người Nhật có nhiều Mỹ lai một phần là thế.
Trước đó, năm 1945, khi mới giành được chính quyền, Cụ Hồ mời cụ Huỳnh Thúc Kháng từ miền Trung ra Hà Nội. Vừa đặt chân tới thủ đô, cụ Huỳnh tuyên bố: “Cụ Chủ tịch thuộc hàng con cháu, tôi sẽ khuyên Cụ nước ta không thể đi theo con đường cộng sản!”. Chỉ sau một đêm thày trò bên nhau rủ rỉ, lấy đại sự quốc gia dân tộc làm trọng, cụ Hồ đã thuyết phục được và cụ Huỳnh là người hợp tác tích cực và tâm đắc nhất với cụ Hồ cho tới trọn đời. Cụ Huỳnh – vị đại trí thức từng vào tù ra khám vì dám cổ vũ phong trào “cự sưu kháng thuế”, từng là nhà báo cương trực tiếng tăm, là bạn tâm giao với cụ Sào Nam, cùng với các cụ Trần Cao Vân, Phan Châu Trinh được mệnh danh là “nhóm tam hùng” của đất Quảng Nam… lung lạc cụ đâu có dễ! Nhân dân ta không hề ân hận vì đã tin đảng Cộng sản, một lòng với Đảng vượt qua mọi thử thách chông gai hoàn thành sự nghiệp hòa bình thống nhất đất nước và đang đồng hành với Đảng trên con đường xây dựng một quốc gia thống nhất độc lập trong một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Trái lại nếu Đảng cầm quyền không giữ trọn được niềm tin với dân với nước thì chẳng những sẽ chỉ là rất ân hận mà còn mang tội với bao lớp tiền bối tiền nhân. Cụ Hồ nói: “Một người tốt chưa hẳn sẽ tốt mãi nếu không luôn biết sửa mình. Một tổ chức mạnh chưa hẳn sẽ mạnh mãi nếu không còn được lòng dân”. Tin rằng những lớp người kế tục mãi mãi ghi nhớ lời dạy của người sáng lập luôn biết sửa mình để giữ được lòng dân. Người xưa dạy: “Dân vi quý – Xã tắc thứ chi – Quân vi khinh”. Lịch sử quốc gia nào cũng trải nhiều triều vua nhưng chỉ một dân tộc trường tồn trong lòng Tổ quốc.
Không chỉ một Huy Đức từng đưa cuộc nội chiến Hoa Kỳ (1862-1865) ra làm tấm gương soi. Trước hết đem cuộc chiến chống phân ly Nam-Bắc của nước Mỹ so với cuộc chiến trường kỳ chống xâm lăng của dân tộc ta 1945-1975 thật chẳng hợp chút nào, bởi lẽ về bản chất hai cuộc chiến ấy khác nhau hoàn toàn. Ở Mỹ là cuộc nội chiến thật sự chống sự ly khai đất nước. Chúa cứu thế Mỹ Abraham Lincoln nói: “Một gia đình bị chia rẽ thì không thể đứng vững được. Một chính phủ không thể mãi mãi một nửa là tự do và một nửa kia là nô lệ. Tôi không muốn cho Liên bang tan rã. Tôi cũng không muốn cho gia đình sụp đổ. Nhưng tôi muốn cho nó chấm dứt chia rẽ”. Thắng lợi của người Bắc Mỹ là thắng lợi của tư tưởng tự do tiến bộ với tư tưởng bảo thủ duy trì nô lệ mà trên cơ sở đó cả Bắc và Nam Mỹ đều có cơ hội vươn lên mạnh mẽ. Nhưng rồi cũng đến lúc Hợp chúng quốc Hoa Kỳ biểu lộ thái độ dứt khoát vĩnh viễn vùi sâu trong bóng đen lịch sử những tàn dư của sự phân ly quốc gia dân tộc. Mới đây, tại New Orleans, tượng Tổng tư lệnh Robert E.Lee cùng mấy ông tướng nổi danh của đội quân Hợp bang miền Nam thất trận trong công viên Lee Circle đã bị hạ bệ! Chuyện của người ta mà lại làm không ít người Việt chạnh lòng nhớ hoài cái biểu tượng mấy ông tướng đi trái chiều lịch sử mà đêm ngày vẫn đứng hiên ngang kiêu hãnh trước dòng người qua lại dưới chân xem ra thật chướng! Lâu nay người ta cứ tưởng đó là tấm gương văn minh của lịch sử Mỹ để chê bai lên án những người thắng cuộc đối xử “vô nhân” với những người ly khai thua cuộc trong cuộc chiến tranh lâu dài, khốc liệt cho nền độc lập dân tộc và thống nhất đất nước của người Việt Nam.
Sự thật lịch sử cuộc chiến tranh giải phóng của chúng ta là nếu không có đội quân viễn chinh xâm lược Pháp thì không thể có cái gọi là “quân đội quốc gia” của phế đế–quốc trưởng bù nhìn Bảo Đại. Và nếu không có bàn tay của phù thủy Mỹ thì cũng không thể có cái gọi là “chính phủ” và “quân lực Việt Nam cộng hòa”. Bản chất của đội quân ngụy tạo vong bản ấy đã được Nguyễn Văn Thiệu – viên Tổng tư lệnh tối cao của nó lộ ra trong giờ phút chót: “Người Mỹ đưa viện trợ nhiều thì chúng tôi đánh nhiều, còn đưa ít thì chúng tôi đánh ít. Nếu Hoa kỳ không viện trợ cho chúng tôi nữa thì không phải là một ngày, một tháng, một năm mà chỉ sau ba giờ chúng tôi sẽ rời khỏi dinh Độc lập”! và được viên tướng bốn sao Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên phụ họa: “Chúng ta không có trách nhiệm về cuộc chiến tranh này. Trách nhiệm chiến đấu ở đây là người Mỹ. Chính sách đó do họ đề ra. Chúng ta chỉ làm theo họ mà thôi!”. Những người “quốc gia” ở miền Nam trước đây đều biết nguyên Phó Tổng Thống VNCH Nguyễn Cao Kỳ là người chống Cộng quyết liệt tới giờ phút chót. Sau nhiều năm suy ngẫm, trở về Việt Nam, ông đã nói thật lòng trong hồi ký Ngày trở về: “Việt cộng gọi chúng tôi là những con rối, những con bù nhìn của người Mỹ. Nhưng rồi chính nhân dân Mỹ cũng gọi chúng tôi là những con bù nhìn của người Mỹ chứ không phải là lãnh tụ chân chính của nhân dân Việt Nam. Ông Mỹ lúc nào cũng đứng ra làm kép chính. Chúng tôi không có quyền lực và vai trò gì quan trọng. Vì vậy nhiều người cho đây là cuộc chiến tranh của người Mỹ mà chúng tôi chỉ là những kẻ đánh thuê”!
Những người trước đây ảo tưởng rằng mình chiến đấu thật sự vì lý tưởng quốc gia, không khỏi xót lòng cay đắng đã lầm lỡ nhập vào một đội quân thật đấy mà giả đấy, là một thực thể nhưng là ngụy tạo! Cái chết ấm ức của ai đó chỉ là cái “gan” của kẻ võ biền chứ không thể là cái “dũng” của người tướng “tuẫn tiết” như tấm gương “vị quốc vong thân” của các đấng tiên liệt Võ Duy Ninh, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, Trương Định…
Trái lại từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh phát lời “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh nước Việt Nam mới thì trên đất nước này chỉ có một đội quân thật sự từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu duy nhất. Đội quân khởi đầu từ những chiến sỹ tự vệ hợp thành các đội du kích, trưởng thành Đoàn Vệ quốc quân, Đoàn Giải phóng quân và Quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay, đi từ thắng lợi phòng vệ buổi đầu tới thắng lợi cuối cùng là “đánh cho Mỹ cút đánh cho ngụy nhào”, non sông nước Việt một lần nữa sạch sành sanh bóng quân xâm lược! Không ít chiến sỹ của đội quân trung thành yêu nước ấy đã ngã xuống trên mọi miền của tổ quốc, xứng đáng được ghi công và tôn vinh đời đời như những anh hùng liệt sỹ “vị quốc vong thân”.
Lịch sử Mỹ thừa nhận rằng Tổng Thống A. Lincoln lệnh cho quy tập 7.000 binh sỹ chết trận của cả hai bên thắng bại đều được đưa vào chôn xen kẽ trong cùng một khu mộ có tấm bia đề “Nơi đây là chỗ nằm xuống của tất cả những người vì nước Mỹ” tại Nghĩa trang quốc gia Arlington, là điều thế gian chưa từng thấy xưa nay. Đó là việc làm hàm chứa ý nghĩa chính trị lớn xuất phát từ nội tình nước Mỹ đang cần thiết cất bỏ đi gánh nặng của ý muốn phục thù đặng an dân, ổn định xã hội nhanh chóng hướng đến việc phát triển đất nước. Nói rằng xuất phát từ tính nhân văn – nhân bản thì tại sao sau đó những “đồng bào nổi loạn” ở miền Nam vẫn bị tước quyền bàu cử và những người Cộng hòa cấp tiến vẫn bằng mọi cách khống chế những kẻ chiến bại ngoan cố và dùng cả vũ lực khi cần? Trải một thời gian dài hai miền nước Mỹ mới chung nhịp thở và đồng bước song hành. Đặc biệt một trăm năm sau (1968), hậu duệ những người Phi nô lệ mới hoàn toàn được hưởng mọi quyền công dân bình đẳng với người da trắng đúng lúc nước Mỹ đang rất cần có lính quân dịch đưa sang Việt Nam! Và thêm 20 năm nữa (1988) với những người cầm đầu phe ly khai mới được ân xá về tội lỗi của họ.
Huy Đức khai thác cả những tiểu tiết vụn vặt trong các sự kiện như là cải tạo và những trại tập trung, vượt biên, nạn kiều… có nhằm để khuấy động lên những cảm xúc bi thương uất hận? Sự thật là hàng triệu người bỏ nước ra đi với nhiều lý do khác nhau, là sự tổng hợp của nhiều biến cố trong đó không ít người coi đây là cơ hội đổi đời có một không hai, biết là hiểm nguy cũng liều mạng ra khơi với niềm hy vọng được “ăn cá” hơn là để “cá ăn”! Dù sao đó cũng là nỗi đau để đời với từng cá nhân, gia đình và cũng là trang sử buồn của đất nước. Tuy nhiên có lỗi riêng và có lỗi chung, có điều tránh được và cũng có điều khó tránh. Không thể phủ nhận rằng cuộc cách mạng nào cũng nhân danh sự công bằng bác ái nhưng bị kích động cực đoan hoặc vì tư thù hay vụ lợi đã xảy ra không ít điều bất nhẫn, làm mờ đi cái thiện căn của nó và hằn sâu những hận thù. May thay lịch sử chỉ diễn ra có một lần!
Nếu như lấy mốc 30/4/1975 để phân định lịch sử Việt Nam hiện đại thì trước đó là vô cùng “khốc liệt” và sau đó là vô cùng “phức tạp”. Không thể có sự vô tư và công bằng nếu chỉ nêu ra những lầm lỗi chủ quan một bề mà không xem xét tổng thế những sự kiện khách quan đưa tới. Rõ ràng là cả hai miền Nam-Bắc trước đó đều sống nhờ vào nguồn viện trợ “vô tư, phong phú, toàn diện” của các nước lớn bỗng bị cắt phăng tất tần tật cũng chỉ trong có một ngày! Trong khi những hành động phục thù như “chuyển lửa về quê hương” diễn ra từ mọi phía! Tiếng súng của cuộc chiến tranh bản chất là “khủng bố” của những kẻ phản bội đã bắn vào lưng chiến sỹ ta khi đang hướng vào trận chiến quyết định cuối cùng và tiếp đó lại rộ lên ở cả hai đầu đất nước! Song hành với chính sách kích động nhân tâm vượt biên và cấm vận nghiệt ngã kéo dài hàng chục năm càng làm cho dân tình khốn đốn, có lúc tưởng như là bế tắc. Tất cả đều có người Mỹ làm chỗ dựa. Trong tình cảnh ấy có ai nghĩ rằng Việt Nam đã bỏ lỡ cơ hội “bình thường hóa quan hệ” với Mỹ ngay từ năm 1978 chỉ là sự lừa dối nhau thôi. Đô đốc Elmo R. Zumvalt người từng là tư lệnh Hải quân Mỹ ở Việt Nam cùng hai con trai đều tham chiến ở Việt Nam. Trung tá James Zumvalt – tác giả cuốn sách nổi tiếng “Chân trần chí thép” nói thật lòng rằng: Dù cuộc chiến đã kết thúc nhưng suốt nhiều năm sau đó ông vẫn mang nặng những định kiến hận thù sâu xa với đối phương. Cho đến năm 1994, khi cùng cha qua Việt Nam, trong đầu ông vẫn “luôn có một niềm tin xác quyết rằng trong chiến tranh Việt Nam lực lượng phi nghĩa đã chiến thắng phe chính nghĩa”! Những phút đầu tiếp xúc với những người từng là thù địch, trong ông “cơn giận giữ không ngừng dâng lên và nghĩ rằng lẽ ra họ không được đứng trước mặt tôi với tư cách là người chiến thắng – bởi đó chỉ là số phận, định mệnh chống lại chúng tôi mà thôi”. Dù rằng cha ông đã nhận ra sai lầm sớm hơn khi đứa con trai cả của ông bị chết vì nhiễm chất độc dioxin trong thuốc diệt cỏ mà chính ông là người ra lệnh làm việc đó. Cuộc tìm hiểu kiên trì gần 20 năm, James qua lại Việt Nam hơn 50 lần, tiếp xúc với gần 200 nhân chứng là du kích địa phương, bộ đội chủ lực, từ sỹ quan chỉ huy chiến thuật đến các tướng lĩnh tầm cao chiến lược, thường dân là nạn nhân chiến cuộc… Cái nhìn về cuộc kháng chiến của người Việt Nam, về con người Việt Nam với ông đã hoàn toàn thay đổi: “Thật không may cho người Việt Nam, đất nước họ đã bị nước Mỹ chọn để dựng chiến tuyến chống cộng sản” và khẳng định: “Việt Nam chưa bao giờ là mối đe dọa với nước Mỹ. Họ đơn giản chỉ muốn chúng ta trở về nhà”! Đúng như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh nói với một nhà báo nước ngoài khi cuộc chiến ở lúc gay go nhất: “Chúng tôi không muốn là người chiến thắng. Chúng tôi không muốn là anh hùng. Chúng tôi chỉ muốn điều duy nhất là họ (quân xâm lược Mỹ) cút ngay khỏi đây thôi”! Phải mất không ít thời gian lên thác xuống gềnh mới gạt bỏ được những rào cản để có được thời điểm thích hợp thể hiện nhu cầu bình thường hóa quan hệ của cả hai bên. Vào năm 1995, trong tuyên bố bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, để an lòng một bộ phận không nhỏ dân chúng Mỹ chưa quên mối hận 1975, Tổng thống Bill Clinton phải nói: “Tôi tin rằng việc bình thường hóa và tăng cường các cuộc tiếp xúc giữa người Mỹ và người Việt Nam sẽ thúc đẩy sự nghiệp tự do ở Việt Nam như đã từng diễn ra ởĐông Âu và Liên Xô trước đây” khiến nhiều người Việt Nam nghi ngại. Nhưng 20 năm sau khi không còn đương chức thì ông mới nói thật lòng: “Trong mối quan hệ hữu nghị giữa hai nước, bản thân tôi nghĩ nước Mỹ còn được nhiều hơn” (Tại lễ kỷ niệm 239 năm Ngày Độc lập của nước Mỹ và 20 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Mỹ do Đại sứ quán Mỹ tại Việt Nam tổ chức tại Hà Nội).
Tất nhiên những sai lầm không nhỏ kéo dài trong việc quản lý kinh tế, tổ chức xã hội… càng làm cho những khó khăn thêm chồng chất nặng nề hơn mà nạn nhân của nó không phân biệt bất kỳ ai đang sống trên mảnh đất chưa nguôi khói bom và nhiễm đầy hóa chất này. Ai đó nói rằng “Ngày 30 tháng Tư, hàng triệu người sung sướng thì cũng có hàng triệu người đau khổ” là quay lưng lại với những người từng che chở cưu mang họ khi còn trứng nước. Hòa bình thực sự đến với mọi nhà. Ngoài những kẻ cơ hội thừa cơ “đục nước béo cò”, nhân dân cả nước không trừ ai vẫn trong cảnh khốn khó trăm bề bởi đủ thứ di họa của chiến tranh đặc biệt là nhân dân vùng căn cứ kháng chiến và những người từng hết lòng khi đất nước gian lao. Nước Mỹ thời sau nội chiến từng lâm vào cảnh: “Toàn bộ cuộc sống chỉ là làm thế nào để khỏi chết”! Từ lời gợi ý của TBT Nguyễn Văn Linh: “Mỗi người hãy tự cứu lấy mình!” ta có thể suy ra bối cảnh xã hội Việt Nam lúc đó ra sao? Một Đại tá nguyên là sỹ quan an ninh quân đội Sài Gòn, sau 12 năm cải tạo được trở về kể chuyện như sau: “Ngày ra trại cùng lúc được trả quyền công dân nghĩa là hai bên bình đẳng. Chúng tôi tới chào Ban quản giáo. Dù sao sống gần nhau nhiều năm cũng có chút tình, thay mặt anh em tôi tỏ lời cảm ơn và nói thật rằng: “Anh em chúng tôi so với trước đây thì quá khổ là lẽ tất nhiên rồi nhưng so với các anh thì chưa chắc ai khổ hơn ai”! Anh trưởng trại đáp nửa chơi nửa thật: “Rất mong cấp trên sớm giải quyết xong chuyện này cho chúng tôi thoát “nợ”. Thực ra thì các anh tù trong còn chúng tôi tù ngoài mà lại còn phải lo bao nhiêu là trách nhiệm”!
Huy Đức khéo chắp nối những sự kiện khác nhau trong những điều kiện lịch sử khác nhau cố ý làm lệch lạc cái nhìn của người đọc và làm giảm đi ý nghĩa to lớn rất đáng tự hào của toàn dân tộc. Anh ví “cuộc chiến được gọi là giải phóng đã mở mắt cho người dân miền Bắc” hoặc là: “Nói miền Bắc giải phóng miền Nam nhưng thực ra là miền Nam đã giải phóng cho miền Bắc”! Một cách chơi chữ để chuyện nọ xọ chuyện kia lẫn lộn! Trong khi tổ chức chiến tranh và xây dựng kinh tế là hai lĩnh vực trái chiều nhau dù rằng mục đích cuộc chiến tranh giải phóng là để có hòa bình ổn định đặng mà xây dựng. Đặc biệt ở Việt Nam việc xây dựng một xã hội hoàn toàn mới lạ cùng những quy luật riêng của nó phụ thuộc không ít vào biến động của thế giới, đúng sai thế nào hậu hồi phân giải! Chẳng hạn như chuyện “một đất nước hai chế độ” cũng xảy ra trong hoàn cảnh thế giới đã có nhiều thay đổi và có lẽ chỉ Trung Quốc mới dám làm, vậy mà đã qua 20 năm rồi, hậu quả còn phải chờ xem. Ngày 30/4/1975, khi người con gái TBT Lê Duẩn chạy về báo tin cho cha, thấy ông một mình ngồi lặng trong phòng đang ứa trào ra nước mắt! Trong nỗi vui đến bàng hoàng của toàn dân tộc, Huy Đức đế vào: “Giá như không có sự kiện ngày 19/1/1974 (ngày quân Trung Quốc đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa) thì coi như chiến thắng này là trọn vẹn kể từ khi hoàng đế Gia Long mở mang bờ cõi”! Nhà báo Huy Đức có cố tình quên đi lịch sử?! Đúng là chín đời chúa Nguyễn có công mở mang bờ cõi. Nhưng đến lúc sa cơ, sau khi dẫn mấy vạn quân Xiêm về dày xéo phương nam nơi tổ tiên mình mở mang bờ cõi, bị Nguyễn Huệ đánh cho tan tác, lãnh chúa Nguyễn Ánh đã giao đứa con 5 tuổi cho viên giám mục tây Bá-đa-lộc (Pigneau de Béhaine) làm đại diện cho mình qua cầu viện Pháp hoàng, ký bản giao ước năm 1787 đại lược rằng: Để đổi lấy vũ khí và viện binh, Chúa lưu vong cắt đứt Hội An và đảo Côn lôn cho Pháp kèm theo lời hứa sẽ là nguồn cung cấp binh lính và lương thực khi nước Pháp cần qua đánh ở phương Đông, đồng thời để cho nước Pháp độc quyền ra vào buôn bán và hàng năm nộp cống vật là một chiếc tàu như Pháp đã cho! Nếu như không có chuyện vua Louis XVI và hoàng hậu Maria Antoinnette cùng đám bảo hoàng bị cách mạng Pháp 1789 treo cổ, thỏa ước trên được thực thi thì như một sử gia Pháp nhận định: “Có lẽ nước Pháp đã hoàn thành cuộc bảo hộ ở An Nam từ 100 năm trước, khiến cho về sau khỏi phải dùng đến sự chiến tranh mới xong công việc”! Đến đời Tự Đức và các vua kế nghiệp phát triển thỏa ước của tổ vương xưa bằng những hiệp ước 1862, 1874, 1884 đã dần để mất nước! Việt Nam bị xóa tên trên bản đồ thế giới! Người ta chỉ còn biết đến một vùng lãnh thổ Đông Pháp nằm giữa biển Ấn Độ–Trung Hoa mang cái tên Indochine (Đông Dương) lạ lẫm. Và những người cao niên hẳn chưa quên thời Thế chiến thứ hai, hàng trăm ngàn thanh niên trai tráng Việt bị đẩy ra đỡ đạn thay cho lính Pháp ở Xiêm và ở cả mặt trận phía trời Tây! Trải hàng thế kỷ với xương máu của bao nhiêu thế hệ con Lạc cháu Hồng mới từng bước thu hồi lại giang sơn để quốc danh Việt Nam được sáng ngời lên. Còn chuyện mấy hòn đảo giữa trùng khơi xảy ra trong điều kiện lịch sử rất là đặc biệt. Để đáp lại tuyên bố của Quốc vụ viện nước CHND Trung Hoa về hải phận, trong công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ngày 14/9/1958 nói rõ ràng: “Triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Hoa trong mọi quan hệ với nước CHND Trung Hoa trên mặt bể”, tuyệt nhiên không có từ nào công nhận quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ Trung Hoa. Và ngay khi kết thúc chiến tranh, TBT Lê Duẩn qua Trung Quốc để cảm ơn sự giúp đỡ to lớn hữu hiệu của người anh em, cũng đề cập ngay tới việc thu hồi quần đảo Hoàng Sa. Rất là nhất quán! Những ai theo dõi thời cuộc đều hiểu rằng những quốc gia có biển đảo đều xảy ra sự tranh chấp do lịch sử đẻ ra. Như nhóm đảo Malvinas (Falkland) ở Nam Đại tây dương của người Achentina, vào năm 1982 đã bị người Anh đánh chiếm trước sự làm ngơ của những nước lớn nhưng cả hai bên vẫn khăng khăng công bố chủ quyền! Và cũng chỉ trong một điều kiện lịch sử đặc biệt nào đó mới giải quyết được thôi. Lịch sử truyền đời nhắc nhở các thế hệ người Việt rằng không bao giờ được lơi là cảnh giác với ông bạn khổng lồ phương Bắc. “Người trong một nước phải thương nhau cùng” – Đó là sức mạnh để giữ nhà, giữ nước. Chẳng lẽ một nhà báo “tay nghề lão luyện” há không nhận ra điều đó?!
Ngay trang đầu, Huy Đức mượn câu: “Suy cho cùng trong mỗi cuộc chiến tranh bên nào thắng thì nhân dân đều bại!” của một nhà thơ viết trong lúc giả tỉnh giả say như tiêu chí của tập sách này? Thực ra đó là cách nói “nhái ý” của một nhà văn phương tây cách nay đã hai thế kỷ: “Không có cuộc chiến tranh nào gọi là chiến thắng với các bà mẹ mất con!”. Tuy nhiên trong chiều dài lịch sử nhân loại vẫn diễn ra những cuộc chiến tranh và sự xả thân cao thượng vì nghĩa lớn vẫn sáng ngời lên càng làm vững nền tảng đạo đức con người để không thành con vật!
Huy Đức không phải là “nhà báo nổi tiếng” nhưng anh được trong giới biết tiếng giỏi dùng nghề đó để kiếm tiền. Tuy nhiên “chơi dao sắc có ngày đứt tay”. Ai cũng biết Hà Tĩnh quê hương Huy Đức là một xứ nổi tiếng nghèo mà cũng nổi tiếng thời nào cũng có văn nhân hào kiệt và phong trào chống ngoại xâm cực kỳ oanh liệt cả nước tự hào. Hẳn nhiên trong đó cũng có sự đóng góp của bà con thân tộc dòng họ Trương của anh. Khi mượn lời thơ của người đồng nghiệp Đỗ Trung Quân, Huy Đức nhằm ý khác mà xem ra nó vận chính vào anh:
“Những đứa con tự nhận mình trong sạch / đang nói về quê mẹ của mình / như kẻ ngoại nhân!”
Thành phố Hồ Chí Minh
Những ngày đầu năm Mậu Tuất(2018)
Nguyễn Văn Thịnh
Huy Đức không phải là “nhà báo nổi tiếng” nhưng anh được trong giới biết tiếng giỏi dùng nghề đó để kiếm tiền. Tuy nhiên “chơi dao sắc có ngày đứt tay”. Ai cũng biết Hà Tĩnh quê hương Huy Đức là một xứ nổi tiếng nghèo mà cũng nổi tiếng thời nào cũng có văn nhân hào kiệt và phong trào chống ngoại xâm cực kỳ oanh liệt cả nước tự hào. Hẳn nhiên trong đó cũng có sự đóng góp của bà con thân tộc dòng họ Trương của anh. Khi mượn lời thơ của người đồng nghiệp Đỗ Trung Quân, Huy Đức nhằm ý khác mà xem ra nó vận chính vào anh: “Những đứa con tự nhận mình trong sạch / đang nói về quê mẹ của mình / như kẻ ngoại nhân!”
Trả lờiXóa