Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” của Nhân dân Việt Nam trước đế quốc Mỹ có phải là “may mắn” như những luận điệu xuyên tạc lịch sử của các thế lực thù địch, phản động? Thực tế lịch sử đã chứng minh chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” là chiến thắng của ý chí kiên cường và sự thông minh sáng tạo của một dân tộc, với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập tự do” trước sức mạnh hùng hậu của bộ máy chiến tranh Mỹ.
Bộ đội tên lửa lập công lớn trong Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”, tháng 12-1972. Ảnh: TTXVN
Một số quan điểm sai trái, xuyên tạc về chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” như: Quân và dân Việt Nam sẽ không thể làm nên một “Điện Biên Phủ trên không” nếu Mỹ tiếp tục duy trì cuộc ném bom hủy diệt miền Bắc thêm vài ngày nữa. Hay là Mỹ ký Hiệp định Paris (27-1-1973) không phụ thuộc vào kết quả cuộc ném bom trong 12 ngày đêm cuối năm 1972 tại miền Bắc Việt Nam.
Những luận điệu trên được các thế lực thù địch tung ra nhằm xuyên tạc ý nghĩa, giá trị của thắng lợi “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”. Trên thực tế chính Mỹ là bên không chịu nổi tổn thất và buộc phải ra lệnh chấm dứt ném bom miền Bắc.
Mỹ là bên không chịu nổi tổn thất và buộc phải ra lệnh chấm dứt ném bom miền Bắc
Trong hơn 20 năm chiến tranh xâm lược Việt Nam (1954-1975), năm 1972 là một trong những năm nóng bỏng và gay cấn nhất đối với Mỹ bởi đây là năm then chốt, năm bản lề quyết định sự thành bại của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Vì vậy, Mỹ đã huy động sức mạnh quân sự cao nhất vào mục tiêu tiêu diệt lực lượng cách mạng, củng cố bình định nông thôn để đi đến kết thúc chiến tranh trên thế mạnh.
Tuy nhiên, thực tế trên chiến trường lại ngược lại những mong muốn của Mỹ, lực lượng cách mạng của ta trong năm 1972 để thực hiện cuộc tiến công chiến lược đánh bại quân đội Sài Gòn, tạo thế mạnh cho cách mạng miền Nam ở nông thôn, bẻ gãy hai chân kiềng của “Việt Nam hóa chiến tranh”, đập tan ý chí xâm lược và buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán với ta, đưa đến sự ra đời bản dự thảo Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Nhưng với bản chất ngoan cố, xảo quyệt, Mỹ đã lật lọng trì hoãn việc ký Hiệp định, đồng thời ráo riết chuẩn bị tiến hành những hành động phiêu lưu quân sự mới với mục đích kéo dài chiến tranh, “làm tê liệt đời sống hàng ngày của Hà Nội, Hải Phòng và phá hủy khả năng của Bắc Việt Nam, ủng hộ các lực lượng Nam Việt Nam”(1).
Với sự chuẩn bị từ trước, ngày 17-12-1972 Tổng thống Mỹ Nixon đã ra lệnh cho máy bay chiến lược B52 ném bom Hà Nội, Hải Phòng, mở đầu chiến dịch mang tên “Cuộc hành quân Linebaker II” (nghĩa là cứu bóng trước khung thành II) kéo dài 12 ngày đêm. Để thực hiện chiến dịch, Mỹ đã huy động một lực lượng không quân lớn: 193/tổng số 400 chiếc máy bay B-52 hiện có của quân đội Mỹ; máy bay không quân chiến thuật: 1.077/tổng số 3.043 chiếc (có 1 biên đội máy bay F.111 khoảng 50 chiếc); tàu sân bay: 6/24 chiếc; hơn 50 máy bay tiếp dầu trên không và một số loại máy bay phục vụ khác cùng 60 tàu chiến các loại của Hạm đội 7 ở Thái Bình Dương(2).
Lường trước âm mưu của Mỹ, ngay từ năm 1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự đoán: “Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua mới chịu thua. Phải dự kiến trước mọi tình huống càng sớm, càng tốt để có thời gian mà suy nghĩ, chuẩn bị. Nhớ là trước khi thua ở Triều Tiên đế quốc Mỹ đã hủy diệt Bình Nhưỡng. Ở Việt Nam, Mỹ sẽ nhất định thua. Nhưng nó chỉ chịu thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội”(3). Từ những dự đoán của Người, việc nghiên cứu chuẩn bị kế hoạch đánh B52 đã được triển khai gấp rút. Đến năm 1972, phương án đánh trả các cuộc tập kích đã được hình thành với tên gọi “Phương án tháng 5”, “Phương án tháng 7”, “Phương án tháng 9” và cuối cùng là “Phương án tháng 11”. Tháng 11-1972 đã ra đời những tài liệu vô cùng quan trọng cho Bộ đội Phòng không không quân như: “Cách chống nhiễu thông tin”, “Quy trình bắt B52 trong nhiễu”, “Cách đánh B52 của bộ đội tên lửa”.
Tối 18-12-1972, những máy bay B52 đầu tiên của địch bắt đầu tiến vào vùng trời miền Bắc. Từ đó, liên tục 12 ngày đêm từ 18 đến 29-12-1972 Mỹ đã huy động ở mức cao nhất sức mạnh của không quân chiến lược vào Hà Nội, Hải Phòng và một số trung tâm công nghiệp ở miền Bắc. Mỹ đã sử dụng 663 lần chiếc B52 và 3.920 lần chiến máy bay chiến thuật, ném hơn 100 ngàn tấn bom, đạn xuống Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, thị xã miền Bắc nước ta. Riêng ở Hà Nội, Mỹ đã sử dụng 441 lần chiếc B52 cùng nhiều máy bay chiến thuật ném hàng ngàn tấn bom xuống các khu phố, sân bay, nhà ga, bệnh viện, trường học…Chúng đã hủy diệt nhiều phố xá, làng mạc; phá sập 5.480 ngôi nhà, trong đó gần 100 nhà máy, xí nghiệp, trường học, bệnh viện, nhà ga; giết chết 2.368 dân thường, làm bị thương 1.355 người khác, hủy diệt phố Khâm Thiên - khu vực có mật độ dân số cao nhất Hà Nội.
Chiếc máy bay B-52 đầu tiên bị Tiểu đoàn 59, Trung đoàn Tên lửa 261 bắn rơi trên cánh đồng Chuôm, xã Phù Lỗ, huyện Đông Anh vào 20h13" ngày 18-12-1972. Ảnh: TTXVN
Tuy nhiên, do có sự chuẩn bị chu đáo từ trước, quân và dân ta đã bắn rơi 81 máy bay Mỹ các loại, gồm: 34 chiếc B52; 5 chiếc F-111A; 21 chiếc F-4CE; 4 chiếc A-6A; 12 chiếc A-7; 1 chiếc F-105D; 2 chiếc RA-5C; 1 chiếc trực thăng HH-53; 1 chiếc trinh sát không người lái 147-SC, bắt sống và diệt nhiều giặc lái(4). Nói về kết quả của cuộc tập kích, Kissinger- cố vấn của Tổng thống Mỹ Nixon thú nhận: “Không lực Hoa Kỳ đã vấp phải một hệ thống phòng không hiệu lực nhất trong lịch sử chiến tranh thế giới, với kỹ thuật hiện đại, chống lại được kỹ thuật hiện đại của Mỹ”(5).Tờ báo New York Times thì đánh giá: “Nhà Trắng và Lầu Năm góc nhiều phen chết lặng đi vì khủng khiếp trước con số máy bay bị bắn rơi quá nhiều. Nhưng tình hình lại càng tồi tệ hơn đối với Mỹ, bởi lẽ nhiều chiếc B52 có đi không có về, còn bao nhiêu chiếc nữa bị thương phải nằm liệt nhiều ngày để sửa chữa, thậm chí có chiếc không thể phục hồi. Có 9 chiếc B52 về được nhưng do hỏng nặng cả 9 chiếc không còn bay được nữa. Nền công nghiệp Hoa Kỳ dù mạnh đến đâu cũng không sao sản xuất kịp để bù lại nổi trong thời gian ngắn”(6). Có lẽ Tổng thống Mỹ Nixon lúc này là người cảm nhận rõ ràng nhất sự thất bại mà Mỹ đã gặp phải trong cuộc tấn công bằng không quân vào Hà Nội và các tỉnh miền Bắc Việt Nam, ông ta nói trong hồi ký của mình: “Nỗi lo của tôi trong những ngày này không phải lo những làn sóng phản đối, phê phán nghiêm khắc trong nước và trên thế giới mà chính là mức độ tổn thất về máy bay B52 quá nặng nề”(7). Còn Tướng Gioóc Ết-tơ, Phó chỉ huy không quân chiến lược Mỹ ngày 30-12-1972 đã thú nhận: “Tổn thất về máy bay chiến lược B52 cùng các nhân viên phi hành là hết sức nặng nề, là đòn choáng váng đánh thẳng vào những nhà vạch kế hoạch của Lầu Năm góc”(8).
Thắng lợi “Hà Nội- Điện Biên Phủ trên không” buộc Mỹ ngồi vào bàn đám phán ký kết Hiệp định Paris
Chính thất bại trên bầu trời Hà Nội và các tỉnh miền Bắc vào những ngày cuối cùng của năm 1972 đã buộc Mỹ phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam từ Bắc vĩ tuyến 20 và ngồi vào bàn đàm phán với ta, chấp nhận những nội dung đã thỏa thuận từ tháng 10-1972. Từ ngày 8 đến 13-1-1973 hai bên đã hoàn thành văn bản cuối cùng của dự thảo Hiệp định ở vòng đàm phán cuối cùng. Ngày 23-1-1973 Hiệp định Paris được ký tắt. Ngày 27-1-1973 Mỹ và chính quyền Sài Gòn phải cùng ta chính thức ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam. Đây cũng thắng lợi trong việc “đánh cho Mỹ cút”, tạo ra tiền đề mở cuộc Tổng tấn công và nổi dậy “đánh cho ngụy nhào” vào năm 1975.
Quang cảnh Lễ ký Hiệp định Paris, ngày 27/1/1973 tại Trung tâm các Hội nghị quốc tế ở thủ đô Paris, Pháp (Ảnh:TTXVN)
Đã 50 năm kể từ sau 12 ngày đêm lịch sử ấy, chiến thắng “Hà Nội- Điện Biên Phủ trên không” vẫn mãi ngân vang trong lòng dân tộc, để lại nhiều bài học quý báu cho thế hệ hôm nay và mai sau. Những ai cho rằng chiến thắng “Hà Nội- Điện Biên Phủ trên không” có yếu tố “may mắn” và Hiệp định Paris được ký kết không phụ thuộc vào kết quả cuộc ném bom trong 12 ngày đêm cuối năm 1972 thì thực chất, đó chỉ là sự cố tình đánh tráo khái niệm, ngoảnh mặt làm ngơ trước sự kiện lịch sử được coi là trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Nhân dân ta và là một trong những chiến thắng vĩ đại ở thế kỷ XX, viết tiếp những trang sử vàng chói lọi trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc.
***
Nguồn: Baothanhhoa.vn
không có gì có thể phụ nhận được những chiến thắng vang dội, chiến công hào hùng của những người chiến sĩ, dù có những đối tượng, tổ chức nào cố tình xuyên tạc, bóp méo sự thật về những cuộc chiến, công lao của con người và người dân Việt Nam thì lịch sử vẫn như vậy, vẫn là những trang sử hùng tráng kể về chiến thắng giành lại độc lập chủ quyền của dải đất hình chữ S này
Trả lờiXóakể cả những cường quốc với sức tàn phá kinh khủng của đội quân nước họ đối với những nước thuộc địa, dù mạnh đến mấy vẫn phải cúi đầu trước sự kiên cường, bất khuất chống giặc của người dân Việt Nam, với đường lối, sự chỉ đạo vô cùng khôn ngoan và tinh tường, đất nước ta đã đi qua hết chiến thắng này đến chiến thắng khác, và giành được độc lập chủ quyền của dân tộc
Trả lờiXóaChiến thắng Điện biên phủ trên không là một chiến thắng vĩ đại của lịch sử Quân đội nhân dân ta, khi mà ta đã buộc Mỹ phải ký kết đàm phán, thắng lợi quân sự như là một thắng lợi to lớn về mặt ngoại giao của ta. Do đó, những kẻ không hiểu biết về lịch sử, chỉ giỏi bỉ bôi chế độ, nói xấu thì không xứng đáng là con dân Việt Nam
Trả lờiXóachiến thắng Điện Biên Phủ trên không vừa thể hiện tinh thần yêu nước bất khuất, vừa thế hiện trí tuệ bản lĩnh, của nhân dân ta. Mỹ đã từng tuyên bố B52 không thể bắn hạ, dùng những từ mỹ miều như pháo đài bay, nhưng thực chất cũng chỉ là mỏ nhôm của ta thôi
Trả lờiXóa